Nghị định 111/2015/NĐ-CP về phát triển công nghiệp hỗ trợ
Cơ quan ban hành: | Chính phủ | Số công báo: | Đã biết |
Số hiệu: | 111/2015/NĐ-CP | Ngày đăng công báo: | Đã biết |
Loại văn bản: | Nghị định | Người ký: | Nguyễn Tấn Dũng |
Ngày ban hành: | 03/11/2015 | Ngày hết hiệu lực: | Đang cập nhật |
Áp dụng: | Đã biết | Tình trạng hiệu lực: | Đã biết |
Lĩnh vực: | Công nghiệp , Chính sách |
DN công nghiệp hỗ trợ nhỏ và vừa được hỗ trợ đến 70% vốn đầu tư
Nhiều chính sách mới đã được ban hành tại Nghị định số 111/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/11/2015 về phát triển công nghiệp hỗ trợ – ngành công nghiệp sản xuất nguyên liệu, vật liệu, linh kiện và phụ tùng để cung cấp cho sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh.
Trước hết, Nghị định quy định các doanh nghiệp có dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển sẽ được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định; được miễn thuế nhập khẩu với hàng hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định; được vay với lãi suất vay tín dụng đầu tư từ nguồn tín dụng đầu tư của Nhà nước; vay ngắn hạn bằng đồng Việt Nam tại các tổ chức tín dụng với mức lãi suất cho vay theo trần lãi suất cho vay của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ; doanh thu của sản phẩm công nghiệp hỗ trợ được lựa chọn kê khai thuế giá trị gia tăng theo tháng, năm, khai tạm tính theo quý…
Riêng với doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc Danh mục ưu tiên phát triển, ngoài được hưởng các chính sách nêu trên còn được miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước theo quy định của pháp luật về đất đai; được vay tối đa 70% vốn đầu tư tại các tổ chức tín dụng trên cơ sở bảo lãnh của các tổ chức bảo lãnh tín dụng.
Tuy nhiên, để được vay vốn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa phải đáp ứng các điều kiện như: Có tổng giá trị tài sản thế chấp, cầm cố tại tổ chức tín dụng tối thiểu 15% giá trị khoản vay, sau khi đã loại trừ giá trị tài sản cầm cố, thế chấp cho các khoản vay khác; có tối thiểu 20% vốn chủ sở hữu tham gia dự án đầu tư, sau khi trừ số vốn chủ sở hữu thu xếp cho các dự án khác; tại thời điểm đề nghị bảo lãnh, không có các khoản nợ đọng nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, nợ xấu tại các tổ chức tín dụng hoặc tổ chức kinh tế khác…
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2016.
Xem chi tiết Nghị định 111/2015/NĐ-CP tại đây